Thứ Bẩy, 21/12/2024 21:07:40
Số lượt xem: 5
Với sự quan tâm và đẩy mạnh hỗ trợ về cơ chế, chính sách cũng như sự chủ động nắm bắt cơ hội của cộng đồng doanh nghiệp, địa phương, ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) Việt Nam đã có những bước phát triển rõ nét. Tuy nhiên, nguồn nhân lực còn thiếu, chất lượng chưa đồng đều đang là trở ngại lớn của nhiều doanh nghiệp ngành CNHT.
Vẫn còn hạn chế so với nhu cầu của ngành
Tại Tọa đàm “Nâng cao chất lượng nhân lực ngành CNHT” do Tạp chí Công Thương tổ chức mới đây, ông Cao Văn Bình - Quyền Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ phát triển công nghiệp, Cục Công nghiệp, Bộ Công Thương – cho biết, nguồn nhân lực hiện nay là yếu tố quan trọng đối với việc cải thiện chất lượng sản phẩm, do vậy phát triển nguồn nhân lực là một vấn đề rất quan trọng trong sự phát triển của ngành CNHT và ngành công nghiệp.
Việt Nam đang trong giai đoạn dân số vàng với khoảng 54% dân số ở độ tuổi lao động, trong đó lực lượng lao động rất trẻ và dồi dào. Tuy nhiên, nguồn nhân lực có trình độ kỹ thuật, có tay nghề cao hiện nay còn hạn chế cả về số lượng và trình độ, là trở ngại lớn của nhiều doanh nghiệp hoạt động trong ngành như cơ khí, chế biến chế tạo, thiết bị linh phụ kiện điện, điện tử..., đặc biệt trong bối cảnh hội nhập, cạnh tranh khi tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, cũng như nâng cao vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị.
Cụ thể, số lượng lao động có tay nghề cao trong các ngành công nghiệp, CNHT hiện nay rất hạn chế so với nhu cầu của ngành do sự gia tăng từ nhu cầu trong ngành; sự phát triển về khoa học, công nghệ, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo và tự động hóa.
Về chất lượng, ông Bình cho rằng, hiện nay chất lượng nguồn nhân lực có tay nghề cao trong các ngành này tại Việt Nam thấp hơn so với các nước phát triển khác. Trong đào tạo ngành kỹ sư chế tạo ở các trường đại học, cao đẳng cũng thường ít hơn các ngành khác. Nhiều doanh nghiệp trong nước chưa gắn kế hoạch phát triển nguồn nhân lực với các trường đại học, cao đẳng nên có sự thiếu hụt về nhân lực có tay nghề cao, không chủ động nguồn nhân lực. Bên cạnh đó, nguồn nhân lực hiện có do thiếu kinh nghiệm và chưa sáng tạo trong công việc, đặc biệt trong việc áp dụng công nghệ mới.
Chia sẻ về những khó khăn nguồn nhân lực trong ngành CNHT, ông Phùng Anh Tuấn - Phó Giám đốc Công ty Cổ phần Manutronic Việt Nam cho hay, hiện tại theo xu hướng về chuyển dịch chuỗi cung ứng toàn cầu và Việt Nam bây giờ đang là một trong những điểm đến vô cùng hấp dẫn của tất cả các doanh nghiệp và các tập đoàn trên thế giới trong xu hướng chuyển dịch này. “Tuy nhiên, ngoài những cơ hội đó thì cũng gặp phải rất nhiều thách thức. Đó là sự chuyển dịch từ những nước đang có cơ sở hạ tầng bài bản, vững chắc và có một hệ thống, kinh nghiệm trong nhiều năm khi đến Việt Nam họ sẽ đòi hỏi đáp ứng một số yếu tố theo yêu cầu, nếu như doanh nghiệp có mong muốn chuyển dịch và muốn tham gia sâu vào trong chuỗi cung ứng toàn cầu một cách sâu và rộng”- ông Phùng Anh Tuấn bày tỏ.
Ông Lê Quý Thành - Giám đốc Nhà máy TOMECO An Khang cũng cho biết, một khó khăn nữa là các chương trình đào tạo nhìn chung hiện nay vẫn đang có một khoảng “vênh” giữa xu hướng phát triển khoa học công nghệ trên thế giới và tốc độ cải tiến chương trình đào tạo tại nhà trường. Trong nhà trường, đối với cả các chương trình đào tạo kỹ sư thì cũng đang đào tạo thiên về lý thuyết và rất thiếu thời lượng chương trình thực hành tại nhà trường cũng như tại doanh nghiệp. Sinh viên mới ra trường cần rất nhiều thời gian để học việc để đáp ứng các yêu cầu về mặt chuyên môn và học kỹ năng để đáp ứng các yêu cầu về giao tiếp, đàm phán, lập kế hoạch và định hướng công việc, hướng đến kết quả đó chính là những mà giá trị mà doanh nghiệp cần nhất.
Đẩy mạnh gắn kết đào tạo và cung ứng lao động
Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp hỗ trợ, theo ông Bình, thời gian tới cần tập trung đẩy mạnh việc gắn kết đào tạo và cung ứng lao động. Cụ thể, các trường cũng nên đẩy mạnh hợp tác quốc tế, thu hút hoặc tận dụng các chuyên gia nước ngoài giàu kinh nghiệm để đào tạo nâng cao chất lượng đội ngũ kỹ thuật của Việt Nam. Việc tận dụng hiệu quả nguồn lực chuyên gia, giảng viên chất lượng, giàu kinh nghiệm và kiến thức từ các nước bạn đi trước trong ngành công nghiệp hỗ trợ, được kì vọng sẽ mang lại những hiệu quả cao trong việc phát triển nguồn nhân lực.
“Bên cạnh đó, chúng tôi cũng mong các doanh nghiệp tự nâng cao ý thức trong phát triển nguồn nhân lực, có định hướng trong thu hút nhân tài và phát triển nhân lực chất lượng cao. Khi có nhân lực rồi cần tiếp tục đào tạo nội bộ thường xuyên, tạo điều kiện cho cán bộ, công nhân viên, người lao động tiếp tục được học và đào tạo, để tăng cường trình độ khoa học kỹ thuật, đáp ứng các yêu cầu mới mà thị trường và chuỗi cung ứng đặt ra”- ông Bình chia sẻ.
Hiện nay, Trung tâm Hỗ trợ phát triển công nghiệp đã và đang thực hiện các chương trình, nhiệm vụ được Bộ Công Thương phê duyệt, trong đó có các chương trình đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Đơn cử như phối hợp với các tổ chức quốc tế, tập đoàn đa quốc gia tổ chức một số chương trình đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cụ thể cho các ngành công nghệ lõi, trong đó có ngành công nghiệp hỗ trợ. Trung tâm đang phối hợp với Đại học Công nghiệp Hà Nội, Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Thủy lợi, Đại học Giao thông vận tải trong xây dựng các chương trình đào tạo phù hợp với sự phát triển nguồn nhân lực chung cho ngành công nghiệp hỗ trợ.
Đây cũng là một trong những chủ trương của Đảng, Nhà nước, đặc biệt là cũng đã giao cho Bộ Công Thương triển khai một số chương trình, chính sách nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thời gian vừa qua.
“Sắp tới chúng tôi sẽ tiếp tục trình lãnh đạo Bộ Công Thương phê duyệt các chương trình, chính sách và mong tiếp tục được sự ủng hộ, hỗ trợ để cho chúng tôi thực hiện các chương trình đào tạo, góp phần tăng cường nguồn nhân lực có chất lượng cao để đáp ứng xu thế thị trường hiện nay”- ông bình thông tin thêm.
Chia sẻ thêm về những giải pháp, TS. Kiều Xuân Thực - Hiệu trưởng Đại học Công nghiệp Hà Nội cho biết, nhà trường đang có 12 chương trình đào tạo theo nhu cầu và tuyển dụng trước khi tốt nghiệp với các đối tác doanh nghiệp FDI đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc hay là Đài Loan (Trung Quốc), cụ thể như: Nissan, LG,… Có trên 1.000 sinh viên Đại học Công nghiệp Hà Nội đang tham gia những chương trình này và các em đã được hưởng lương từ doanh nghiệp ngay từ đầu năm thứ ba hoặc đầu năm thứ tư.
“Với nhóm giải pháp như vậy, cùng sự vào cuộc tích cực, chủ động từ cả hai phía doanh nghiệp và nhà trường thì chúng tôi cho rằng bài toán nhân lực chất lượng cao cho doanh nghiệp và việc xóa khoảng cách, xóa độ vênh giữa đào tạo với sử dụng chắc chắn sẽ được giải quyết triệt để”- TS. Kiều Xuân Thực chia sẻ.
Theo MOIT